Các Vùng Địa Lý Việt Nam

Các Vùng Địa Lý Việt Nam

Các vùng du lịch Việt Nam là tiêu chí phân vùng trên cơ sở tuyến hay điểm du lịch và dựa trên sự liên kết những điểm tương đồng hay các điểm du lịch. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 chia ra 7 vùng du lịch thay vì 3 vùng như chiến lược đến năm 2010, các vùng du lịch gồm: Trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc, vùng Bắc Trung Bộ, vùng duyên hải Nam Trung Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ và vùng Tây Nam Bộ.[1][2]

Các vùng du lịch Việt Nam là tiêu chí phân vùng trên cơ sở tuyến hay điểm du lịch và dựa trên sự liên kết những điểm tương đồng hay các điểm du lịch. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 chia ra 7 vùng du lịch thay vì 3 vùng như chiến lược đến năm 2010, các vùng du lịch gồm: Trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc, vùng Bắc Trung Bộ, vùng duyên hải Nam Trung Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ và vùng Tây Nam Bộ.[1][2]

Miền Trung được chia làm 3 tiểu vùng:

Nam Trung Bộ: gồm 8 tỉnh thành theo thứ tự bắc-nam:

Hai vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ được gọi chung là Duyên hải miền Trung. Khối núi Bạch Mã, nơi có đèo Hải Vân được coi là ranh giới giữa Bắc và Nam Trung Bộ. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có khi được gọi tắt là Nam Trung Bộ

Từ Bình Phước trở xuống phía nam và hai thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ. Khu vực này chia làm 2 vùng chính:

Vùng Đông Nam Bộ có 5 tỉnh và 1 thành phố: 5 tỉnh:

Vùng đồng bằng sông Cửu Long, còn gọi là Tây Nam Bộ hay miền Tây: có 12 tỉnh và 1 thành phố:

Các điều ước quốc tế song phương

Biên giới Việt Nam-Lào được xác lập và ghi nhận trong 11 điều ước quốc tế song phương: Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa Việt Nam-Lào năm 1977; Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới giữa Việt Nam và Lào năm 1986; Nghị định thư về việc phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới Việt Nam-Lào năm 1986; Nghị định thư bổ sung Nghị định thư về việc phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới Việt Nam-Lào năm 1987;

Hiệp định về quy chế biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Lào năm 1990; Nghị định thư sửa đổi và bổ sung Hiệp định về quy chế biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Lào năm 1997;

Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới giữa Việt Nam, Lào và Trung Quốc năm 2006 ; Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Lào về việc sửa đổi điểm khởi đầu đường biên giới quốc gia Việt Nam-Lào năm 2007; Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới giữa Việt Nam, Lào và Campuchia năm 2008;

Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới giữa Việt Nam và Lào năm 2016; Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới Việt Nam và Lào năm 2016.

Để tạo thuận tiện cho người, hàng hóa, phương tiên lưu thông qua biên giới và bảo đảm việc kiểm soát qua lại biên giới có hiệu quả, Hiệp định quy chế biên giới năm 1990 quy định mở 8 cửa khẩu chính.

Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới trên đất liền giữa nước CHDCND Lào và CHXHCN Việt Nam năm 2016 quy định cụ thể hệ thống cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính và cửa khẩu phụ. Trên toàn tuyến biên giới Việt-Lào có 8 cặp cửa khẩu quốc tế, 18 cặp cửa khẩu chính.

Tại mỗi cửa khẩu (quốc tế và chính) có bố trí các lực lượng chuyên trách: Lực lượng bộ đội biên phòng (đối với Việt Nam), lực lượng công an (đối với Lào); Cơ quan hải quan; Cơ quan kiểm dịch (y tế, động vật, thực vật) mỗi nước.

Quy trình kiểm tra, kiểm soát xuất, nhập cảnh, giám sát hoạt động xuất, nhập qua biên giới được thống nhất và theo thông lệ quốc tế.

Tại cửa khẩu phụ, nơi có đủ các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành và đáp ứng được yêu cầu về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật thì thủ tục kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động xuất, nhập qua biên giới được thực hiện như tại cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính.

Tại cửa khẩu phụ, nơi chưa có đủ các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành và chưa đáp ứng được yêu cầu về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật thì thủ tục kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động xuất, nhập qua biên giới được tiến hành tại trạm kiểm soát biên phòng (Việt Nam) và trạm kiểm soát công an xuất nhập cảnh (Lào).

Tại cửa khẩu phụ, nơi chưa có cơ quan hải quan thì lực lượng biên phòng (Việt Nam) và lực lượng công an xuất nhập cảnh (Lào) thực hiện thủ tục, tiến hành kiểm tra, kiểm soát, giám sát đối với hàng hóa mua bán, trao đổi của cư dân biên giới theo quy định của pháp luật về hải quan của mỗi nước và các quy định khác của các điều ước quốc tế có liên quan mà hai nước là thành viên.

Đối với hàng hóa, vật phẩm, phương tiện không phải của cư dân tỉnh biên giới xuất, nhập qua cửa khẩu phụ khi cần thiết phải được chính quyền địa phương hoặc cơ quan hữu quan của hai bên trao đổi, thống nhất trình cấp có thẩm quyền hai nước xem xét, quyết định.

Hàng hóa, vật phẩm, phương tiện xuất, nhập qua cửa khẩu phụ phải có đầy đủ giấy tờ hợp lệ, thực hiện các nguyên tắc, thủ tục theo quy định của pháp luật về hải quan, các quy định liên quan khác của pháp luật mỗi nước và các điều ước quốc tế có liên quan mà hai nước là thành viên.

Tại các cửa khẩu biên giới, hai nước hợp tác phát triển hệ thống các chợ biên giới, trung tâm thương mại biên giới, khu kinh tế cửa khẩu như Lao Bảo, Na Mèo.

Trước kia, chợ chủ yếu là nơi giao thương, buôn bán của cư dân vùng biên hai nước Việt-Lào.

Ngày nay, giao thông được nâng cấp, mở rộng đã thu hút người dân, du khách từ khắp nơi đến chợ, tạo nên nét đẹp du lịch và phát triển kinh tế – xã hội của vùng biên giới hai dân tộc anh em.

Địa lí Việt Nam là các đặc điểm địa lí của nước Việt Nam, một quốc gia nằm ở rìa phía đông bán đảo Đông Dương, gần trung tâm khu vực Đông Nam Á. Tổng diện tích đất liền của Việt Nam là 331.212 km². Biên giới Việt Nam trên đất liền dài 4.639 km, giáp với vịnh Thái Lan ở phía tây nam, vịnh Bắc Bộ và biển Đông ở phía đông, Trung Quốc ở phía bắc, Lào và Campuchia ở phía tây. Hình dáng Việt Nam trên bản đồ có dạng hình chữ S, khoảng cách từ bắc tới nam (theo đường chim bay) là 1.650 km và vị trí hẹp nhất theo chiều đông sang tây nằm ở Đồng Hới (Quảng Bình) với chưa đầy 50 km. Đường bờ biển dài 3.260 km không kể các đảo. Ngoài vùng nội thủy, Việt Nam tuyên bố 12 hải lý lãnh hải, thêm 12 hải lý vùng tiếp giáp lãnh hải, 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và cuối cùng là thềm lục địa. Vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam chiếm diện tích khoảng 1.000.000 km² biển Đông.[1]

Việt Nam là một quốc gia nhiệt đới với địa hình phần lớn là đồi núi (chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ), chủ yếu là đồi núi thấp, đồng bằng chỉ chiếm 1/4 diện tích. Tính trên phạm vi cả nước, địa hình đồng bằng và đồi núi thấp (dưới 1.000 m) chiếm tới 85% diện tích. Địa hình núi cao (trên 2.000 m) chỉ chiếm 1% diện tích cả nước. Cấu trúc địa hình khá đa dạng nhờ vận động Tân kiến tạo làm trẻ lại, tạo nên sự phân bậc rõ rệt theo độ cao, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam. Đất đai có thể dùng cho nông nghiệp chiếm chưa tới 20%. Đất nước bị chia thành miền núi, vùng đồng bằng sông Hồng ở phía bắc; dãy Trường Sơn, Tây Nguyên, đồng bằng duyên hải miền Trung, và đồng bằng sông Cửu Long ở phía nam.

Những vùng đồng bằng thấp và phẳng ven biển trải dài từ phía nam đồng bằng sông Hồng tới châu thổ sông Cửu Long (Mê Kông). Ở phía đất liền, dãy Trường Sơn mọc dựng đứng trên bờ biển, các mũi của nó ở nhiều chỗ chạy xiên ra biển. Nói chung mảnh đất ven biển khá màu mỡ và được canh tác dày đặc.

Biển Đông là một vùng biển lớn, tương đối kín, thể hiện rõ tính chất nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á. Biển Đông rộng gấp nhiều lần phần đất liền và có giá trị to lớn về nhiều mặt. Cần phải có kế hoạch khai thác và bảo vệ biển tốt hơn để góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.^-^

Vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng cực nam của Việt Nam, còn được gọi là Vùng đồng bằng sông Mê Kông, Vùng đồng bằng Nam Bộ, Vùng Tây Nam Bộ, Cửu Long hoặc theo cách gọi của người dân Việt Nam ngắn gọn là Miền Tây, có 1 thành phố trực thuộc Trung ương (Việt Nam) là thành phố Cần Thơ và 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2019, Đồng bằng sông Cửu Long là đồng bằng có tổng diện tích các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lớn nhất Việt Nam (40.547,2 km² và có tổng dân số toàn vùng là 17.273.630 người. Đồng bằng sông Cửu Long chỉ chiếm 13% diện tích cả nước nhưng chiếm gần 18% dân số cả nước, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn cả nước (năm 2015 tăng 7,8% trong khi cả nước tăng 6,8%). Chỉ riêng lúa đã chiếm 47% diện tích và 56% sản lượng lúa cả nước; xuất khẩu gạo từ toàn vùng chiếm tới 90% sản lượng. Chưa kể thủy sản chiếm 70% diện tích, 40% sản lượng và 60% xuất khẩu cả nước,... Tuy nhiên, Đồng bằng sông Cửu Long đứng về phương diện thu nhập vẫn còn nghèo hơn cả nước: thu nhập bình quân đầu người với mức 40,2 triệu đồng (cả nước là 47,9 triệu đồng/người/năm).

Sông Hồng, bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, dài khoảng 1.200 km. Hai hợp lưu là sông Lô và sông Đà cùng góp phần vào lưu lượng hàng năm trung bình lên tới 3.000 mét khối mỗi giây. Con số này có thể tăng lên gấp 60 lần vào mùa mưa. Vùng châu thổ dựa lưng vào vùng trung du và thượng du núi non. Cao độ của vùng châu thổ chỉ khoảng hơn ba mét so với mực nước biển, thậm chí đa phần chỉ là một mét hay còn thấp hơn nữa. Vì là đất thấp nên châu thổ hay bị lũ lụt; ở một số nơi mức nước lụt đã từng dâng ngập làng mạc dưới 14 mét nước. Qua nhiều thế kỷ, việc phòng lụt đã trở thành một công việc gắn liền với văn hóa và kinh tế của vùng. Hệ thống đê điều và kênh mương rộng lớn đã được xây dựng để chứa nước sông Hồng và để tưới tiêu cho vùng châu thổ giàu lúa gạo này cùng để tháo nước khi bị lụt. Hệ thống này sau nhiều thế hệ đã góp phần duy trì mật độ dân số cao ở đồng bằng sông Hồng và làm tăng gấp đôi diện tích có thể canh tác lúa nước ở đây.

Phía Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Việt Nam là vùng miền núi và trung du bao gồm nhiều dãy núi, khối núi, cao nguyên và các đồi. Đây là nơi sinh sống của nhiều nhóm dân tộc thiểu số. Dãy núi lớn ở đây là Hoàng Liên Sơn ở miền Bắc và Trường Sơn ở miền Trung. Nhiều ngọn núi có độ cao trên 2.000 mét, trong đó Fansipan là ngọn cao nhất, lên tới 3.143 mét. Ở vùng Đông Bắc và miền Trung, nhiều dãy núi chạy ra biển, tạo thành những cảnh quan tự nhiên tráng lệ, hùng vĩ.

Đồng bằng sông Hồng có hình tam giác với diện tích 15.000 km vuông, hơi nhỏ hơn nhưng lại đông dân hơn đồng bằng sông Cửu Long. Thời trước nó là một vịnh nhỏ của vịnh Bắc Bộ, dần dần được bồi đắp nhờ khối lượng phù sa lắng đọng khổng lồ của các con sông thuộc hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Thái Bình, qua hàng nghìn năm khiến mỗi năm lấn thêm ra biển khoảng một trăm mét. Đây là nơi sinh sống của tổ tiên người Việt. Trước năm 1975, đồng bằng sông Hồng chiếm 70% sản lượng nông nghiệp và 80% sản lượng công nghiệp miền bắc Việt Nam.

Đồng bằng sông Cửu Long, với diện tích 40.000 km², là một đồng bằng thấp. Mọi vị trí trên đồng bằng này không cao hơn 3 mét so với mực nước biển. Đồng bằng bị chia cắt dọc ngang bởi nhiều con kênh và các con sông. Con sông mang nặng phù sa trên mọi nhánh chằng chịt của nó làm cho đồng bằng hàng năm tiến thêm về phía biển 60 đến 80 mét. Các con sông bồi đắp nên đồng bằng này thuộc hệ thống sông Cửu Long và hệ thống sông Đồng Nai. Một nguồn thông tin chính thức của Việt Nam ước tính rằng khối lượng phù sa lắng động hàng năm là khoảng 1 tỷ mét khối, hay gần gấp 13 lần khối lượng phù sa lắng đọng của sông Hồng. Khoảng 10.000 km² đồng bằng hiện được dùng cho canh tác lúa gạo, biến đây trở thành một trong những vùng sản xuất lúa gạo lớn trên thế giới. Mũi phía nam, được gọi là mũi Cà Mau, hay mũi Bãi Bung, là nơi có mật độ rừng rậm cao và các đầm lầy đước.

Lãnh thổ Việt Nam phần trên đất liền gồm ba miền tự nhiên (có những đặc điểm địa hình, động thực vật, khí hậu chung trong miền), đó là: Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ; Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ; Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

Đặc điểm cơ bản của vùng này là: có quan hệ mật thiết với lục địa Hoa Nam (Trung Quốc) về mặt địa chất - kiến tạo và chịu ảnh hưởng mạnh nhất của gió mùa Đông Bắc.

Địa hình chủ yếu là đồi núi thấp với độ cao trung bình 600 m. Hướng vòng cung của các dãy núi và các thung lũng sông là nét nổi bật trong cấu trúc sơn văn của miền. Địa hình karst khá phổ biến. Hướng nghiêng chung là tây bắc - đông nam với các bề mặt địa hình thấp dần ra biển và sự hợp lưu của các dòng sông lớn khiến cho đồng bằng mở rộng.

Địa hình bờ biển đa dạng: nơi thấp phẳng, nơi nhiều vịnh, đảo, quần đảo. Vùng biển nông, tuy nhiên vẫn có vịnh nước sâu thuận lợi cho phát triển kinh tế biển.

Tài nguyên khoáng sản: giàu than, sắt, thiếc, wolfram, chì, bạc, kẽm, vật liệu xây dựng,... Vùng thềm lục địa Bắc Bộ có bể dầu khí sông Hồng.

Sự xâm nhập mạnh của gió mùa Đông Bắc tạo nên một mùa đông lạnh. Đặc điểm này được thể hiện ở sự hạ thấp đai cao cận nhiệt đới (có nhiều loài cây phương Bắc) và sự thay đổi cảnh quan thiên nhiên theo mùa.

Sự bất thường của nhịp điệu mùa khí hậu, của dòng chảy sông ngòi và tính bất ổn cao của thời tiết là những trở ngại lớn của vùng.

Việt Nam được chia thành 3 miền và 8 vùng:

Dọc theo lãnh thổ trải dài khí hậu Việt Nam phân bố thành 3 vùng: miền bắc có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, miền trung mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong khi miền nam nằm trong vùng nhiệt đới xavan. Khí hậu Việt Nam có độ ẩm tương đối trung bình 84-100% cả năm. Tuy nhiên, vì có sự khác biệt về vĩ độ và sự khác biệt địa hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét theo từng vùng. Trong mùa đông hay mùa khô, khoảng từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, gió mùa thường thổi từ phía đông bắc dọc theo bờ biển Trung Quốc, qua vịnh Bắc Bộ, luôn theo các thung lũng sông giữa các cánh cung núi ở Đông Bắc mang theo nhiều hơi ẩm; vì vậy ở đa số các vùng việc phân biệt mùa đông là mùa khô chỉ là khi đem nó so sánh với mùa mưa hay mùa hè. Trong thời gian gió mùa tây nam mùa hè, xảy ra từ tháng 5 đến tháng 10, không khí nóng từ sa mạc Gobi phát triển xa về phía bắc, khiến không khí ẩm từ biển tràn vào trong đất liền gây nên mưa nhiều.

Lượng mưa hàng năm ở mọi vùng đều lớn dao động từ 120 đến 300 cm và ở một số nơi có thể gây nên lũ. Gần 90% lượng mưa đổ xuống vào mùa hè. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở đồng bằng nói chung hơi cao hơn so với vùng núi và cao nguyên. Dao động nhiệt độ từ mức thấp nhất là 5°C từ tháng 12 đến tháng 1, tháng lạnh nhất, cho tới hơn 37 °C vào tháng 7, tháng nóng nhất. Sự phân chia mùa ở nửa phía bắc rõ rệt hơn nửa phía nam, nơi mà chỉ ngoại trừ vùng cao nguyên, nhiệt độ mùa chỉ chênh lệch vài độ, thường trong khoảng 21-28 °C.

Chiều dài đường biên giới trên đất liền: 4.639 km

Đường bờ biển: 3.260 km (không tính các đảo)

Vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán:

Biên giới với Lào, được quy định dựa trên cơ sở dân tộc, giữa những vị vua cai trị Việt Nam và Lào vào giữa thế kỷ XVII, đã được định nghĩa chính thức bằng một hiệp ước phân định ranh giới ký kết năm 1977 và được phê chuẩn năm 1986. Biên giới với Campuchia, được xác định từ thời người Pháp sáp nhập vùng phía tây đồng bằng sông Cửu Long năm 1867, hiện hầu như vẫn không thay đổi nhiều. Theo Việt Nam, một số vấn đề biên giới còn tồn tại cuối cùng đã được giải quyết vào giai đoạn 1982-1985. Biên giới trên đất liền và trên biển với Trung Quốc, được phác ra theo những hiệp ước Pháp-Thanh năm 1887 và 1895, là "đường biên giới" mà Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đồng ý tôn trọng vào năm 1957-1958. Tuy nhiên, tháng 2 năm 1979, tiếp sau cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979, Việt Nam đã tuyên bố rằng từ năm 1957 trở về sau Trung Quốc đã gây ra nhiều vụ xung đột ở biên giới như một phần trong chính sách chống Việt Nam của họ và ý định thực hiện chủ nghĩa bành trướng ở Đông Nam Á. Trong số những sự vi phạm lãnh thổ được nêu ra có việc Trung Quốc chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956 và chiếm toàn bộ quần đảo vào ngày 19 tháng 1 năm 1974. Hiện Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này và hiện vấn đề vẫn chưa được giải quyết.

Tại quần đảo Trường Sa, ngoài Việt Nam thì còn 5 bên tuyên bố chủ quyền là Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Philippines, Malaysia và Brunei.

Điểm cực bắc trên đất liền của Việt Nam nằm ở xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang tại tọa độ 23°23′33″B 105°19′24″Đ / 23,392505912°B 105,32324°Đ / 23.3925059120; 105.323240 (23°23′33″B 105°19′23,7″Đ / 23,3925°B 105,31667°Đ / 23.39250; 105.31667).

Điểm cực nam trên đất liền của Việt Nam nằm ở xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau tại tọa độ 8°33′45″B 104°49′53″Đ / 8,5624409°B 104,8312831°Đ / 8.5624409; 104.8312831 (8°33′44,8″B 104°49′52,6″Đ / 8,55°B 104,81667°Đ / 8.55000; 104.81667).

Điểm cực nam trên biển của Việt Nam nằm ở Hòn Đá Lẻ, quần đảo Hòn Khoai, tỉnh Cà Mau (điểm A2 của Đường cơ sở Việt Nam) tại tọa độ 8°22′51″B 104°52′43″Đ / 8,380852°B 104,878725°Đ / 8.380852; 104.878725 (8°22′51,1″B 104°52′43,4″Đ / 8,36667°B 104,86667°Đ / 8.36667; 104.86667).

Điểm cực tây trên đất liền của Việt Nam nằm ở A Pa Chải - Tá Miếu, xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên[2][3] (ngã ba biên giới Việt - Trung - Lào) tại tọa độ 22°24′03″B 102°08′38″Đ / 22,400734°B 102,14394°Đ / 22.400734; 102.143940 (22°24′2,6″B 102°08′38,2″Đ / 22,4°B 102,13333°Đ / 22.40000; 102.13333).

Điểm cực đông trên đất liền của Việt Nam nằm ở mũi Đôi trên bán đảo Hòn Gốm, xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa tại tọa độ 12°38′54″B 109°27′42″Đ / 12,6483756°B 109,4616339°Đ / 12.6483756; 109.4616339 (12°38′54,2″B 109°27′41,9″Đ / 12,63333°B 109,45°Đ / 12.63333; 109.45000) (không nên nhầm với mũi Điện ở Phú Yên).

Nếu tính cả quần đảo Trường Sa thì điểm cực đông của Việt Nam (hiện đang kiểm soát) nằm tại Hải đăng Tiên Nữ trên đá Tiên Nữ thuộc quần đảo này[4] tại tọa độ 8°52′16″B 114°40′51″Đ / 8,871139°B 114,680778°Đ / 8.871139; 114.680778 (8°52′16,1″B 114°40′50,8″Đ / 8,86667°B 114,66667°Đ / 8.86667; 114.66667).

Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia Việt Nam được thực hiện định kỳ 5 năm một lần, báo cáo gần đây nhất là năm 2010. Giữa các năm đó là những báo cáo môi trường chuyên đề.[5] Theo đó, các vấn đề môi trường nổi cộm là ô nhiễm chất hữu cơ trong nước mặt của các lưu vực sông có nhiều khu công nghiệp và đô thị đông đúc, hàm lượng chất hữu cơ và coliform chảy qua các khu vực này cao hơn tiêu chuẩn hiện hành của Việt Nam 2-3 lần;[6] Ô nhiễm nông nghiệp do sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật quá mức;[7] Đa dạng sinh học suy giảm nghiêm trọng, 80% rạn san hô nằm trong tình trạng xấu, diện tích thảm cỏ biển suy giảm 40-60% so với thời kỳ trước năm 1990.[7] Các vấn đề về an ninh môi trường của Việt Nam chưa được đánh giá như an ninh nguồn nước, ô nhiễm xuyên biên giới chưa được kiểm soát, các loài ngoại lai xâm lấn và các loài biến đổi gen xâm lấn.[8]

Đường cơ sở của Việt Nam gồm có 11 đoạn, bắt đầu từ vùng nước lịch sử Việt Nam-Campuchia, đi qua quần đảo Thổ Chu, Hòn Khoai, Côn Đảo, Đảo Phú Quý, mũi Đôi, mũi Đại Lãnh, hòn Ông Căn, đảo Lý Sơn, đảo Cồn Cỏ.[cần dẫn nguồn]

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về

Các vùng miền trên lãnh thổ Việt Nam

Theo địa lý tự nhiên Việt Nam được chia thành 3 miền với các tỉnh thuộc 3 miền được chia như sau: